Diễn biến Cuộc_nổi_dậy_của_An_Hóa_vương

Đêm ngày 12 tháng 5 năm 1510, Chu Chí Phiên viết thư mời các quan viên tới dự tiệc yến. Chu Đông, An Duy Học xưng bệnh không tới. Khi tiệc rượu đang nửa chừng, Hà Cẩm, Chu Ngang đem nha binh vào nội, giết Thái giám Lý Tăng, Thiếu giám Đặng Quảng; Khương Hán tỏ ra bất khuất, nhục mạ quân nổi dậy, đều bị sát[10]. Sau đó Chu Chí Phiên chính thức nổi loạn[8]. Ngày hôm sau, loạn binh giết Chu Đông, An Duy Học[3][11]. Trước cái chết của An Duy Học, Đô chỉ huy Thiêm sự Dương Trung biết mình cũng không thoát được, bèn mắng chửi Đinh Quảng, rồi cũng bị giết luôn. Đồng liêu Dương TrungLý Duệ nghe tin có biến, đem người ngựa đến phủ An Hóa vương, phủ môn đã đóng chặt. Lý Duệ vẫn ở trước cửa chửi bới, nên bị giết. Bách hộ Trương Khâm không chịu theo phe loạn Đảng, chạy đến Lôi Phúc bảo, loạn quân cũng đuổi theo hạ sát[12]. Hầu Khải Trung thì bị nhốt vào ngục thất[7][9].

Chu Chí Phiên phóng hỏa đốt phủ quan, mở cửa tù ngục, phóng thích tội nhân, mở cửa phủ khố lấy vàng bạc; mua chuộc Dương Anh, Cừu Viên. Từ Khâm dẫn binh vào thành, ngụy tạo ấn tín, bài lệnh. Lúc đó Dương Anh đang ở ải Dương Hiển, quân lính nghe tin biến loạn rủ nhau bỏ trốn, Dương Anh trốn qua Linh châu[13]. Cừu Việt lúc đó đang ở trại Ngọc Tuyền ở phía ngoài thành, nghe tin đã muốn bỏ trốn, nhưng vì vợ con còn ở trong thành Ninh Hạ, chỉ còn cách dẫn quân vào thành, cởi bỏ áo giáp mà đầu hàng. Chu Chí Phiên đoạt quyền quản lý các cánh quân, mở kho tàng khao thưởng tướng sĩ. Chu Chí Phiên lấy Hà Cẩm làm Thảo tặc Đại tướng quân; Chu Ngang, Đinh Quảng làm Tả, Hữu phó tướng quân, Tôn Cảnh Văn vi Tiền phong, Từ Khâm làm Tiền phong tướng, Ngụy Trấn, Dương Thái và 5 người nữa làm Tổng binh đô hộ, Chu Hà và 10 người khác làm Tổng quản. Lạu sai Tôn Cảnh Văn viết hịch văn, mệnh lệnh, sao ra hơn trăm bản, kể các tội trạng của Lưu Cẩn, truyền ra các trấn, xưng là khởi binh để thanh lọc triều đình, loại trừ gian thần Lưu Cẩn[3][7][8] Những người đồng mưu bao gồm 18 nhà bọn Chu Ngang và những kẻ trong phủ An Hóa vương.[14].

Người trấn giữ tây lộ Ninh Hạ là Tham tướng Phùng Trinh và Đồng trấn thủ doanh Quảng Vũ là Chỉ huy Thiêm sự Tôn Long cáo biên lên trên[15]. Tổng binh Thiểm Tây Tào Hùng nghe tin biến động, suất binh dọc theo đường sông Hoàng Hà đến đánh, phái Chỉ huy sứ Hoàng Chánh đem 3000 quân đánh vào Hạ châu, trấn thủ Linh châu; và dùng lời lẽ để yên dụ dân chúng. Rồi phát hịch văn yêu cầu Dương Anh đốc quân Linh châu phòng thủ dọc theo bờ sông Hoàng Hà[16]. Quân trấn sợ quyền của Lưu Cẩn, không dám đem việc này báo lên triều đình[4]. Hữu Thiêm đô ngự sử, Tuần phủ Diên Tuy Hoàng Kha Phong đem hịch văn của Chu Chí Phiên báo lên triều đình[9], thỉnh cầu 8 việc. An Hóa vương sai bọn Ngụy Trấn đến dụ hàng doanh Quảng Vũ, bị Tôn Long dùng cung tiễn bắn loạn xạ, nên phải rút lui. Tào Hùng tự dẫn quân tới Linh châu[7]. Đô chỉ huy Hàn Bân, Tổng binh Quan Hưng Vũ Doanh Bảo Huân, Tham tướng Thời Nguyên hưởng ứng Tào Hùng, phái binh đến cùng hội họp. Hoàng Kha lập tức hạ lệnh Bảo Huân, Thời Nguyên phân binh giữ Hà Đông, phản quân không dám đến đánh[17].

Trong lúc Chu Chí Phiên khởi loạn, cả Quan Trung đại chấn, trong ngoài đều lo sợ. Trong triều Lưu Cẩn tìm cách che giấu hịch văn kể tội mình không cho Chính Đức biết, tìm cách hãm hại những người tấu việc về hịch văn, xử tử hoặc lưu đày. Lưu Cẩn lại giả chiếu đổi cho tâm phúc là Thị lang bộ Hộ Trần Chấn làm Thị lang bộ Binh kiêm Thiêm đô ngự sử, tạm hành tổng chế sự, thảo phạt Chu Chí Phiên. Lúc đó quân sĩ tiến cử Hữu đô ngự sử Dương Nhất Thanh làm Đề đốc quân vụ. Lưu Cẩn mong muốn Dương Nhất Thanh phải đàn áp nhanh loạn quân, rồi giết chết bọn người kia để diệt họa miệng[7]. Chính Đức đế dùng Dương Nhất Thanh làm Tổng chế Ninh Hạ, Diên Tuy, Cam, Lương quân vụ, thảo phạt An Hóa. Lấy thái giám Trương Vĩnh làm Tổng độc quân vụ Ninh Hạ[7]. Thăng Phó tổng binh, Đô chỉ huy Thiêm sự Dương Anh là Hữu phủ thự Đô đốc Thiêm sự, sung Tổng binh quan, đem quan quân Diên Tuy 1500 người dưới quyền thống lĩnh[13]. Trấn thủ Ninh Hạ, Du kích tướng quân, Đô chỉ huy thiêm sự Cừu Việt là Phó tổng binh quan, Phòng vệ Linh châu Đô chỉ huy Thiêm sự Sử Dung làm Du kích tướng quân. Trước đó Cừu Việt là bộ tướng dưới quyền Dương Nhất Thanh[18], đến khi chuyện ông ta đã hàng giặc, triều thần định thu hồi sắc thu. Đại học sĩ Dương Đình Hòa cho rằng Cừu Việt chỉ là bị ép bức chứ chưa hẳn thực có ý phản, nên đề nghị không truy hồi sắc thư[16], thay vào đó thảo chiếu thư xá miễn, nhằm li gián quân khởi nghĩa. Bảo Huân cùng Chu Chí Phiên hợp mưu với nhau, nhưng Chí Phiên nghi Huân là ngoại ứng, triều đình bèn dùng kế dùng Huân làm Tham tướng. Bảo Huân dâng sớ lên triều đình nói mẹ và vợ đều ở dưới chỗ quân nổi dậy, chứ không cố ý theo giặc, nay xin theo về triều đình. Thiêm sự Bào Tích đem kị mã cáo biến, bộ Binh thấy là người có khí tiết, được nhận làm Tham tướng giữ phía đông Ninh Hạ, Mã Ngang thì bị bãi miễn[16]. Chính Đức lệnh triều đình nghị tội An Hóa vương, bộ Binh và Anh quốc công Trương Mậu đề nghị tước bỏ phong hiệu quận vương. Chính Đức đồng ý, phái quan viên đến cáo tông miếu, xá thiên hạ, trừ vương tước của Chu Chí Phiên, lấy Thần Anh giữ ấn Bình Hồ tướng quân, sung Tổng binh quan, cùng Dương Nhất Thanh tiết chế Kinh Doanh và Thiểm Tây, Ninh Hạ, Diên Tuy, Cam Lương các lộ quân mã thảo phạt bạn quân. Ngự mã giám thái giám Lục Ngân nhận chức Quản lĩnh thần thương, cùng Trương Vĩnh nhận chiếu tuyển trong Kính Doanh quân 30.000 người tinh tráng để ra trận. Nhà vua đích thân đến cửa Đông Hoa tiễn Dương Nhất Thanh, Trương Vĩnh, ban cho quan phòng, kim qua, cương phủ, và kim bài tổng đốc[9][19][20].

Trận chiến quy mô đầu tiên diễn ra ngày 21 tháng 5, ở sông Hoàng Hà. Quân khởi nghĩa chiến bại, quan quân thu được thuyền chiến và vũ khí[8]Dương Anh sai Sử Dụng đoạt thuyền ở tây ngạn Hoàng Hà. Tào HùngSử Dung lại bí mật phái người đến hẹn với Cừu Việt làm nội ứng[13]. Cừu Việt thấy rằng Chu Chí Phiên khởi loạn mà cũng chẳng có mưu lược gì cũng đã chán nản, bèn xưng bệnh ở nhà và bí mật chiêu mộ những tráng sĩ trung thành với hoàng gia. Bọn Hà Cẩm vốn tin tưởng Cừu Việt, thường đến chỗ ông ta hỏi kế sách. Cừu Việt bố trí người xuất thành, khi trở về thì thông báo rằng quan quân đang tới chỗ nào, để đánh lạc hướng tiến quân của Chu Chí Phiên. Chí Phiên mắc mưu, phái Hà Cẩm, Đinh Quảng đem 3000 quân ra cửa Thủ Độ, chỉ còn Chu Ngang làm lưu thủ trong thành. Khi làm lễ xuất quân hạ lệnh triều Cừu Việt, nhưng Việt xưng bệnh không tới. Chu Ngang đến nhà thăm bệnh và hỏi mưu kế, Cừu Việt dụ Ngang vào trong mật thất đã có bố trí người phục kích, đến lúc thì xông ra chém chết Ngang. Sau đó sai bọn tráng sĩ Dương Chân cỡ hơn 100 người đến vương phủ giết Chu Hà, Tôn Cảnh Văn, Sử Liên... 11 người, bắt sống Chu Chí Phiên và con là Chu Thái Tiềm, Tạ Đình Hòe, Hàn Đình Chương, Trương Hội,... Đó là ngày 30 tháng 5[7]. Cuộc nổi dậy chấm dứt[3][4][11][16][18].

Cừu Việt ra nghênh tiếp quân của Dương Anh, giả lệnh Chu Chí Phiên cho bọn Hà Cẩm trở về, rồi bí mật chiêu dụ Trịnh Khanh. Khi Hà Cẩm về thanh, bọn Trịnh Khanh liền đem bộ binh giết Hồ Tỉ, Ngụy Trấn hơn 10 người, rồi qua Hà Khẩu giết Lưu Việt, Khương Vĩnh; nghĩa quân tan rã. Hà Cẩm, Đinh Quảng, Từ Khâm, Dương Thái, Vương Phụ chạy ra núi Hạ Lan, rồi đều bị bắt[3][16].

Liên quan